Nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp khu vực kinh tế ngoài nhà nước.

 

Doanh nghiệp khu vực kinh tế ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp ngày càng đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.


Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp khu vực kinh tế này chính là góp phần quan trọng vào xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.


Trong những năm qua, khu vực kinh tế ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài (gọi chung là khu vực kinh tế ngoài nhà nước (KVKTNNN) có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đóng góp nổi bật là, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, nhất là số người đến tuổi lao động chưa có việc làm, số lao động dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giảm biên chế, giải thể.

KVKTNNN phát triển ổn định và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP. Năm 2005, khu vực kinh tế này đã đóng góp 516.670 tỉ đồng, chiếm 61,60% GDP (theo giá thực tế); năm 2008, đóng góp 1.075.715 tỉ đồng, chiếm 64,87% (theo Niên giám thống kê).


Ngoài ra, KVKTNNN còn góp phần quan trọng tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội; góp phần hình thành và phát triển các doanh nghiệp, xây dựng đội ngũ các doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh; góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.


Chính vì vậy, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam luôn xác định: Phát triển đoàn viên, xây dựng công đoàn trong các doanh nghiệp KVKTNNN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.


Các cấp công đoàn, nhất là Công đoàn cơ sở (CĐCS) trong doanh nghiệp KVKTNNN đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong công nhân, người lao động (CNLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về tổ chức công đoàn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú; coi trọng việc nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của CNLĐ để kịp thời phản ánh, kiến nghị với cấp ủy, chính quyền đồng cấp nghiên cứu, giải quyết.


Tổ chức thực hiện các phong trào “Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” và cuộc vận động “Xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh công nghiệp”, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần cho người lao động; góp phần xây dựng cơ sở đảng ở khu vực này.


Các cấp công đoàn đã chủ động hướng dẫn, giúp đỡ CĐCS trong các doanh nghiệp KVKTNNN xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, tổ chức hội nghị người lao động thương lượng với NSDLĐ ký thỏa ước lao động tập thể theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Tổng Liên đoàn, nhằm bảo đảm các quyền lợi cơ bản của người lao động; tham gia giải quyết có hiệu quả nhiều vụ tranh chấp lao động dẫn đến ngừng việc tập thể và đình công tự phát, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động và xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp.


Công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS và xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh trong các doanh nghiệp thuộc KVKTNNN được thực hiện và đã trở thành cuộc vận động sâu rộng trong tổ chức công đoàn.


Năm 2008, cả nước có 6.485.129 đoàn viên, 97.462 CĐCS, trong đó KVKTNNN chiếm 73,6% số đoàn viên và 73,4% số CĐCS; kết nạp mới 662.879 đoàn viên, thành lập 5.499 CĐCS mới, trong đó KVKTNNN chiếm 73,6% số đoàn viên và 73,4% số CĐCS mới. Năm 2009, kết nạp mới 598.727 đoàn viên, thành lập mới 6.349 CĐCS, trong đó, KVKTNNN chiếm 72,1% số đoàn viên và 72,3% số CĐCS mới. Năm tháng đầu năm 2010, kết nạp mới 230.708 đoàn viên và thành lập mới 2.375 CĐCS, trong đó KVKTNNN chiếm 75,9% số đoàn viên mới kết nạp và 78,9% số CĐCS mới thành lập. Đến ngày 30-5-2010, cả nước có 6.874.994 đoàn viên và 103.069 CĐCS, nghiệp đoàn (đã trừ số bị giảm do các nguyên nhân khác nhau).


Tỷ lệ CĐCS ở KVKTNNN đạt tiêu chuẩn vững mạnh hằng năm khoảng 35%. Hoạt động của CĐCS đã hướng mạnh vào công tác phát triển đoàn viên, chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNLĐ thông qua các hình thức hợp đồng lao động, đại diện xây dựng, thương lượng, ký kết và tổ chức thực hiện thỏa ước lao động tập thể, Quy chế Dân chủ cơ sở, nội dung, nội quy, quy chế phối hợp...


Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công đoàn nói chung, cán bộ CĐCS ở KVKTNNN nói riêng đã có nhiều chuyển biến tốt. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng đa dạng, từng bước được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động ở cơ sở.


Tuy nhiên, trong thời gian qua tổ chức và hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp KVKTNNN còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém. Nội dung tuyên truyền, giáo dục còn nặng về lý luận, chưa sát với yêu cầu cụ thể, đa dạng theo từng CĐCS trong các loại doanh nghiệp khác nhau (cổ phần, tư nhân, liên doanh, có vốn đầu tư nước ngoài...), ở các địa bàn, vùng miền khác nhau.


Việc tuyên truyền, giáo dục chưa đến được số đông CNLĐ trực tiếp sản xuất và làm việc phân tán, lưu động; chưa tập trung đầu tư nhiều cho tuyên truyền về chính sách, pháp luật lao động, về tổ chức công đoàn cho người lao động và NSDLĐ; hình thức tuyên truyền, giáo dục chưa thật phù hợp với điều kiện sống và làm việc của CNLĐ KVKTNNN; nắm bắt diễn biến tư tưởng của người lao động chưa thật kịp thời.


Một số nơi, vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động của Công đoàn còn mờ nhạt, hiệu quả thấp; công tác kiểm tra, giám sát và phối hợp kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ chính sách đối với CNLĐ thực hiện chưa thường xuyên, chất lượng kiểm tra còn hạn chế; một số cán bộ công đoàn chưa mạnh dạn đấu tranh bảo vệ người lao động; hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý của Công đoàn chưa đáp ứng được yêu cầu của đông đảo người lao động.


Công tác phát triển đoàn viên và thành lập CĐCS đạt tỷ lệ thấp so với tổng số lao động và số doanh nghiệp mới thành lập; quản lý đoàn viên chưa chặt chẽ; ở nhiều nơi, việc chấm điểm, đánh giá, phân loại CĐCS chưa sát, còn hình thức, phản ánh không đúng thực chất hoạt động của CĐCS; cán bộ công đoàn cấp trên chưa sâu sát thực tế ở cơ sở.

Những nguyên nhân cơ bản của hạn chế, yếu kém là: Công tác quản lý về lao động còn nhiều sơ hở, chưa chặt chẽ; một số cán bộ công đoàn ngại va chạm với NSDLĐ, thiếu tính năng động, nặng về hành chính, chưa sâu sát đoàn viên, CNLĐ; nhìn chung, trình độ, năng lực của cán bộ CĐCS ở các doanh nghiệp KVKTNN chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; đại đa số cán bộ CĐCS hoạt động không chuyên trách, phụ thuộc nhiều vào NSDLĐ, ít có thời gian dành cho hoạt động công đoàn; chính sách, pháp luật đối với CNLĐ còn nhiều hạn chế, bất cập; chưa có cơ chế chính sách để bảo vệ cán bộ công đoàn nói chung, cán bộ CĐCS ở KVKTNNN nói riêng dám đấu tranh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; một bộ phận NSDLĐ chưa nhận thức đầy đủ về tổ chức công đoàn Việt Nam, còn né tránh, chưa thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật lao động và Công đoàn; điều kiện vật chất, kinh phí dành cho hoạt động công đoàn còn nhiều khó khăn.


Thời gian tới, Công đoàn các cấp cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau:


Một là, tích cực, chủ động tham gia ý kiến để sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động và Luật Công đoàn; chủ động tham gia xây dựng và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến CNLĐ như: chính sách về nhà ở cho CNLĐ ở các khu công nghiệp tập trung, có thu nhập thấp; chính sách bảo đảm việc làm, tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, xây dựng nhà trẻ, mẫu giáo và các thiết chế văn hóa phục vụ CNLĐ; quy định pháp luật về thực hiện Quy chế Dân chủ trong các doanh nghiệp, về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo vệ môi trường; chính sách đối với lao động nữ, đào tạo, đào tạo lại nghề cho CNLĐ; chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với công nhân có sáng kiến, có tay nghề cao.


Hai là, phối hợp chặt chẽ với NSDLĐ tổ chức thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, tổ chức hội nghị người lao động; hướng dẫn, giúp đỡ CNLĐ ký hợp đồng lao động.


Đại diện tập thể người lao động đối thoại, thương lượng, ký và tổ chức thực hiện thỏa ước lao động tập thể với nội dung quy định có lợi hơn cho người lao động; tổ chức thực hiện các biện pháp xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, phòng ngừa tranh chấp lao động, đình công tự phát tại doanh nghiệp; đại diện tập thể lao động thực hiện quyền tổ chức, lãnh đạo đình công theo thủ tục, trình tự pháp luật.


Nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn pháp luật nhằm thực hiện tốt quyền được tư vấn miễn phí của đoàn viên, CNLĐ về pháp luật lao động và Luật Công đoàn; tổ chức thực hiện có hiệu quả việc tham gia tố tụng các vụ án lao động nhằm bảo vệ quyền lợi cho CNLĐ. Tham gia giải quyết việc làm, chăm lo đời sống cho CNLĐ; đẩy mạnh các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, các hoạt động xã hội, tương thân, tương ái trong CNLĐ.


Ba là, đẩy mạnh việc đa dạng hóa các hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp với điều kiện sống và làm việc của CNLĐ; tập trung đầu tư tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho CNLĐ; tăng cường sự phối hợp giữa CĐCS doanh nghiệp với CĐCS xã, phường, thị trấn để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng và hoạt động các tổ tự quản và các tủ sách pháp luật về lao động, về Công đoàn tại khu nhà trọ của CNLĐ.


Kịp thời nắm vững tâm tư, nguyện vọng của người lao động để chủ động đề xuất, kiến nghị với NSDLĐ và các cơ quan chức năng nhằm hạn chế và giải quyết kịp thời tranh chấp lao động, đình công tự phát; bảo đảm hài hòa lợi ích của CNLĐ, NSDLĐ và Nhà nước.


Nâng cao chất lượng hoạt động của các nhà văn hóa, câu lạc bộ công nhân trong việc tổ chức học tập, sinh hoạt văn hóa cho CNLĐ. Những nơi có đông CNLĐ, cần chủ động đề xuất với chính quyền xây dựng nhà văn hóa công nhân và các công trình công cộng phục vụ CNLĐ; đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, thể thao, nâng cao đời sống tinh thần cho CNLĐ tại doanh nghiệp.


Phát động và tổ chức sâu rộng trong CNLĐ phong trào học tập và tự học nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở và cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa công nghiệp.


Bốn là, tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước trong CNLĐ, trọng tâm là phong trào “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”, “Xanh - sạch - đẹp, bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động”...; có các nội dung và hình thức tổ chức thi đua, khen thưởng phù hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp.


Năm là, tập trung đẩy mạnh các hoạt động nhằm phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, tập hợp đông đảo CNLĐ ở các doanh nghiệp KVKTNNN gia nhập tổ công đoàn, gắn với việc củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động của CĐCS đã có; bảo đảm thực chất về chất lượng những CĐCS đạt tiêu chuẩn “Công đoàn cơ sở vững mạnh”.


Đề cao trách nhiệm của Công đoàn cấp trên cơ sở trong việc đại diện cho đoàn viên và CĐCS; đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn, nhất là cán bộ CĐCS, cán bộ công đoàn xuất thân từ công nhân, cán bộ nữ; tăng cường hình thức bồi dưỡng tại cơ sở, chú trọng các nội dung về chính sách, pháp luật lao động, kỹ năng hoạt động công đoàn và năng lực, bản lĩnh đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNLĐ; bố trí hợp lý cán bộ công đoàn chuyên trách ở các doanh nghiệp KVKTNNN; triển khai rộng rãi “Quỹ hỗ trợ cán bộ công đoàn cơ sở”.


Đặng Ngọc Tùng
Chủ tịch Tổng LĐLĐ VN


CÁC ĐƠN VỊ LIÊN KẾT

may rang ca phe ca phe sach ca phe nguyen chat may photocopy thue may photocopy