26/ Tập san thơ Hương Sen số 7 (Phần 1).
CÂU LẠC BỘ THƠ 28-7
HƯƠNG SEN
TẬP SAN LƯU HÀNH NỘI BỘ
SỐ 7
6 THÁNG CUỐI NĂM 2006
BỒ XUÂN QUÝ - ĐÌNH TÍN - ĐOÀN LÂM
HẢI KHÁNH - HỨA KHẮC VŨ – LÂM VĂN HOÀN
MAI XUÂN THƯỞNG - MINH HỒNG - MỸ HUỲNH - NĂM DÂN - NGỌC HOA
PHAN LIÊN KHÊ - QUỐC BỬU - THANH PHƯƠNG - THUÝ MINH - TIẾN LUÔN
TÚY TUYẾT - XUÂN CẢNH - XUÂN NHA - XUÂN PHƯƠNG
Biên tập: Mai Xuân Thưởng - Minh Hồng - Phan Liên Khê
MAI XUÂN THƯỞNG
Nước non trọn niềm vui
Vua Hùng dựng nước kỳ công,
Đời đời con cháu Lạc Hồng đắp xây.
Bao phen mù mịt trời mây,
Quét tan xâm lược, đất này hiên ngang.
Nguyên Mông - Phương Bắc ác gian
Lang Sa, giặc Mỹ bạo tàn họa gieo.
Vượt bao ghềnh thác hiểm nghèo,
Ý chí độc lập sóng reo không ngừng.
Cách mạng Tháng Tám tưng bừng,
Ngày hai tháng chín lẫy lừng tuyên ngôn.
30 năm chiến thắng dập dồn,
75 toàn thắng trường tồn giang san.
Hội nhập, đổi mới sang trang,
Phồn vinh phát triển huy hoàng tương lai.
Văn minh, hiện đại sánh vai,
Năm châu, bốn biển đua tài tiến nhanh.
Bác Hồ, thời đại hùng anh,
Rạng cờ Tổ quốc, vinh danh giống nòi.
Nước non trọn vẹn niềm vui.
MAI XUÂN THƯỞNG
Hùng cường Việt Nam
Văn Lang, Âu Lạc, Việt Nam,
Bắc thuộc, Hán hóa, ác tham ưu phiền.
Ngô Quyền hào khí xung thiên
Quét quân Nam Hán trời nghiêng, đất nhào.
Nam Việt nổi sóng ba đào,
Hai phen thắng Tống, ba nhào Mông - Nguyên.
Minh, Thanh tất thảy ngả nghiêng,
Sáng danh Trưng, Triệu, gươm thiêng anh hào.
Đại Hành, Lê Lợi tài cao,
Thường Kiệt, Hưng Đạo ánh sao sáng ngời.
Quang Trung trí dũng tuyệt vời,
Lũ giặc phương Bắc đời đời khiếp kinh.
Rạng ngời thời đại Chí Minh,
Dẹp tan Pháp, Mỹ yên bình nước non.
Độc lập, thống nhất vẹn toàn,
1975, cột mốc vàng son đời đời.
Ý chí bản lĩnh tuyệt vời,
Thống nhất hành động, sáng ngời ánh dương.
Hòa hợp, hội nhập đa phương,
Dựng xây xã hội hùng cường Việt Nam
TIẾN LUÔN
Sức mạnh Việt Nam
Một, hai ! một, hai !
Tầm vông vạt nhọn là súng trên vai.
Đoàn quân trai trẻ đi đều bước
Tập sáng, tập chiều kịp đánh Tây.
Giặc dữ tưởng rằng chúng vũ trang
Máy bay tàu chiến, đại bác xe tăng
Thẳng tay bình định trong vài tháng
Là đè đầu cưỡi cổ Việt Nam.
Chúng đâu biết rằng trên ngọn tầm vông
Là thép, là gang, là sắt, là đồng,
Là lửa trái tim sục sôi máu nóng
Đốt thành tro bụi lũ ngoại xâm !
Tầm vông vạt nhọn lớn thành tên lửa
Tuổi trẻ xưa, nay tướng tá anh hùng.
Những trận du kích lớn thành chiến dịch
Tổ quốc Việt Nam bốn biển lẫy lừng.
Tầm vông chiến trường, búa trong xưởng máy
Chống giặc ngày xưa, xây dựng ngày nay
Tầm vông mở đường đuổi xong giặc dữ
Tiếng búa công trường, giàu mạnh ở tương lai.
THANH PHƯƠNG
Việt Nam độc lập
Ba mươi tháng tư, khắp nơi nơi
Rợp bóng cờ sao rạng đất trời.
Văng vẳng đâu đây lời đất nước
“Việt Nam độc lập mãi muôn đời”.
Máu cha ông thấm từng nắm đất,
Xương chị, anh chất ngất núi non.
Mắt mẹ thâm bởi đợi mỏi mòn
Cho thế hệ mai sau hạnh phúc.
Để đất nước không còn khổ cực,
Nhân dân cùng chung sức dựng xây
Cho non sông giàu đẹp, tự hào,
Cho thôn xóm yên bình no ấm.
Anh với tôi người Nam, kẻ Bắc
Xiết chặt tay chung sức chung lòng
Tình chúng ta, tình của núi sông
Dựng xây nước Việt đời đời đẹp tươi.
QUỐC BỬU
Yêu tổ quốc
Nước Việt nam, một dân tộc anh hùng
Hàng nghìn năm vang danh nền văn hiến.
Núi hùng vĩ bao la, tràn sóng biển,
Cánh đồng xanh bát ngát lẫn phù sa.
Tình thân thương nhân ái sống chan hòa,
Nghĩa thắm thiết mặn mà vì nhân loại.
Lòng tự hào nước non nhiều thắng lợi,
Lá cờ hồng phơi phới mãi tung bay.
Dòng sông êm nước chảy suốt đêm ngày,
Hồn dân tộc nồng say yêu Tổ quốc.
Nhiều thế hệ giữ non sông đất nước
Mãi sáng ngời rạng rỡ ánh quang vinh.
Nhân dân ta vốn yêu chuộng hòa bình,
Nghĩa chan chứa ân tình tươi đẹp mãi.
Cả đất nước vươn lên cùng tiến tới
Sống hòa bình thân ái khắp muôn phương.
QUỐC BỬU
Lá cờ hồng
Nhìn cờ đỏ sao vàng bay phấp phới,
Trong lòng tôi phấn khởi biết bao nhiêu.
Lá cờ hồng Tổ quốc mãi kính yêu
Bay vun vút trên bầu trời đẹp lắm.
Cờ Cách mạng của Mùa Thu Tháng Tám,
Suốt chín năm làm chiến thắng Điện Biên.
Ba mươi năm thống nhất cả hai miền,
Đang vững bước trên con đường đổi mới.
Từng lộng gió đưa nước nhà tiến tới.
Sáu mươi năm giữ vững một màu xanh,
Nhân dân ta được hạnh phúc yên bình
Tươi sáng mãi trên vùng trời Tổ quốc.
ĐÌNH TÍN
Nam bộ kháng chiến
Cách mạng Tháng Tám huy hoàng
Đánh Tây, đuổi Nhật, sử vàng chép ghi.
Ngày hai tháng chín tức thì
Tuyên ngôn độc lập uy nghi Ba Đình.
Lời rằng dân Việt hiển vinh
Năm châu, thế giới đồng tình hân hoan.
Gần xa các nước lân bang
Ra công học tập tiếng vang Tiên Rồng.
Kể từ Cách mạng thành công
Ba ba ngày đúng, thành đồng ra quân.
Bởi vì giặc Pháp tấn công,
Hai ba tháng chín gươm cùng giáo cây.
Hy sinh chiến đấu đêm ngày
Sài Gòn rực lửa cháy ngay quân thù.
Bưng biền ghi nhớ ngày thu
Công ơn chiến sĩ đi đầu Miền Nam.
Ta thắng lợi, Pháp đầu hàng,
Giải phóng nửa nước, ngày vàng Điện Biên.
Nam Bộ cùng với các miền
Tập kết ra Bắc xây miền hậu phương.
Đấu tranh ngày ấy thân thương,
Giải phóng đất nước kiên cường hy sinh.
Sài Gòn trọn nghĩa trọn tình,
Ngày ba mươi ấy quang vinh giống nòi.
Tổ tiên Hồng Lạc sáng ngời
Cụ Hồ tô đậm giống nòi Lạc Long.
NĂM DÂN
Từ nùa thu ấy
Thu xưa rực nắng tươi hồng,
Bác Hồ vạch lối, non sông đổi đời.
Muôn người chỉ một lời thôi,
Tự do, Độc lập vun bồi từ đây.
Phá xiềng gông, dứt đọa đầy,
Đồng tâm chung sức dựng xây cơ đồ.
Từ bưng biền đến thành đô,
Công, nông, binh, trí phất cờ đứng lên.
Chín năm, thành tựu Điện Biên,
Chiến công tạo thế nối liền chiến công.
Miền Nam giữ vững thành đồng,
Tuyến đầu đánh Mỹ, cờ hồng Bác trao.
Bảy lăm (1975) rợp bóng cờ sao,
Bắc Nam thống nhất, vẫn màu cờ xưa.
ĐÌNH TÍN
Mừng thành công đại hội X
Mừng vui Đại hội thành công
Những ngày tổ chức, cờ hồng tung bay.
Nhân dân theo dõi đêm ngày
Luận bàn quan điểm ngày này rõ thêm.
Mục tiêu của Đảng quang vinh
Dân giàu, nước mạnh, văn minh giống nòi.
Rạng ngời chân lý sáng soi
Chủ trương, biện pháp mặn mòi lòng dân.
Đảng viên kinh tế tư nhân
Như công dân khác cộng đồng tiến lên.
Khác hơn gương mẫu là nền
Không sai điều cấm lệnh đình pháp quy.
Đảng viên niềm nở một khi,
Thi đua sản xuất đường đi công bằng.
Không cho bóc lột bon chen,
Nâng cao mức sống công bằng công nhân.
Cùng nhau lao động đồng thân
Gia công trí tuệ chuyên cần toan lo.
Về tổ chức phải đắn đo
Bộ máy năng động chăm lo cộng đồng.
Tham nhũng quyết chống đến cùng,
Nhân dân hồ hởi thủy chung Đảng mình.
Trước sau kế hoạch hữu tình,
Quyết tâm sữa chữa cái mình còn sai.
Khóa này rực rỡ tương lai
Lãnh đạo đất nước một hai công bằng.
Đối ngoài đối trong rõ ràng,
Năm năm lo lắng siêng năng cho đời.
Vinh quang Đảng cộng sản ơi,
Tạo nên thời thế sáng ngời Việt Nam!
LÂM VĂN HOÀN
Gương sáng đảng viên
Viết về ông Nguyễn Phước, đảng viên lão thành, có công đưa bà con cả làng Cồn Sông, xã Thanh Tùng đi xây dựng kinh tế mới, nay là nông trường mía La Ngà, Đồng Nai. |
Cả cuộc đời đi làm cách mạng
Giờ đây ôn lại chặng đường qua.
Trường chinh dù mấy cách xa
Sáu mươi tuổi đảng, kết hoa dâng đời.
Nhớ lại thuở thiếu thời nghèo khó
Năm bốn lăm cả họ rã rời.
Củ nâu, gốc chuối cầm hơi,
Ngờ đâu còn được sáng ngời ngày nay.
Dòng tâm sự trao tay con cháu
Biết gốc mình phấn đấu gian nan.
Đi theo cờ Đảng vinh quang,
Đổi đời, đất nước, xóm làng ấm no.
Nhớ buổi mới vào khu kinh tế,
Đất miền Đông vắng vẻ lạ xa.
Anh em con cháu một nhà,
Cùng nhau tạo dựng nên cơ nghiệp này.
Cả xóm làng giờ đây Hưng Phát
Vẫn mãi còn đậm chất Cồn Sông.
Dù đi khắp nẻo Tây Đông,
Còn mang theo cả Thanh Tùng quê hương.
Lời góp nhặt theo dòng hồi tưởng,
Mong gửi vào ước muốn dặn dò.
Cháu con dù đói, dù no
Giữ tròn khuôn phép ông bà tổ tiên.
HỨA KHẮC VŨ
Lời thơ dâng Bác
Con đã đọc những nỗi niềm của Bác:
“Miền Nam ở trong trái tim tôi...”
Lời nói ấy muôn đời ghi tạc,
Quốc khánh về nhớ mãi không thôi.
Trọn đời Bác hy sinh cho dân tộc,
Bác trồng cây vú sữa gốc Miền Nam
Để những lúc nhìn cây, lòng Bác
Ước mơ ngày thống nhất giang san.
Rồi ngày vui nối liền Nam Bắc
Hoa hòa bình nở rộ khắp muôn phương
Mà Miền Nam không còn được đón Bác
Vô thăm cho thỏa nỗi nhớ thương.
Dù đã đi xa nhưng hình bóng Bác
Vẫn sống trong lòng dân Việt hôm nay.
Mừng Quốc khánh, ngày vui của dân tộc
Con gởi vần thơ theo cánh mây bay.
ĐOÀN LÂM
Đêm quê hương
Đêm xa nhà, ôi không sao ngủ được,
Có phải nhớ vợ, nhớ con hay uống nhiều trà?
Nhìn bầu trời đầy sao đêm xứ Bắc,
Nhớ Sài Gòn, ánh sáng điện về khuya.
Cứ thao thức, bồn chồn, khắc khoải,
Nhớ mung lung, những kỷ niệm thiếu thời.
Đây mảnh đất, nơi quê cha đất tổ
Ta lớn lên từ hạt lúa, củ khoai.
Nhớ cái thời mò cua bắt ốc,
Cha đi cày, mẹ cấy đồng sâu,
Tuổi thiếu niên, đầu trần, chân đất
Sáng đến trường, chiều ra bãi thả trâu.
Giếng nước, sân đình, cây sáo trúc
Hương cau thoang thoảng, mấy hàng tre,
Mùa gặt lúa, còn thơm mùi rơm mới
Cánh diều bay cao, tiếng sáo đêm hè.
Tình yêu quê trong tình yêu đất nước
Nhớ quê hương và nhớ mẹ nhớ cha.
Bốn mươi năm, cứ ngỡ là khoảng khắc
Ngàn lần, yêu mãi quê hương ta.
PHAN LIÊN KHÊ
Em về quê anh
Đưa em về lại thăm quê,
Đồng xanh bát ngát, sườn đê nắng vàng.
Heo may, gió gọi thu sang
Hàng tre rợp bóng, đường làng quanh co. …
Mái trường từ thuở ấu thơ
Thầy xưa, bạn cũ bây giờ ở đâu ?
Mênh mông ruộng cạn, đồng sâu
Sớm hôm cha mẹ dãi dầu nắng mưa.
Gắng công cấy hái, cày bừa,
Lúa vàng hai vụ chiêm, mùa nặng bông.
Quê anh có một dòng sông
Bốn mùa nước đỏ, chẳng trong bao giờ.
Mẹ cha lận đận thân cò
Nuôi con khôn lớn, bây giờ bay xa.
Tháng ba cây gạo nở hoa,
Tháng năm, cơm mới với cà dầm tương.
Thu sang, cắp sách đến trường,
Nhà tre, mái rạ, đêm đông gió lùa.
Quê anh cảnh sắc như mơ,
Chiều buông, vẳng tiếng chuông chùa bình yên.
Gặp em,"cô Tấm” dịu hiền
Nên anh kén vợ một miền phương xa.
Đưa em về với quê nhà
Em yêu, em thấy như là quê em.
BỒ XUÂN QUÝ
Quê hương
Âm vang mãi như lời mẹ gọi,
Tiếng chuông chùa Cổ Lễ ngân nga.
Quê hương ơi ! Bao ngày mong đợi
Đời chiến binh tôi phải đi xa.
Ngôi chùa lớn đường vào rộng mở
Hoa mẫu đơn đỏ thắm sân chùa,
Ngài rùa lớn cõng cây cửu phẩm,
Đôi cầu cong qua suối quanh co.
Sáu mươi năm trước, chùa phát động
Đoàn tăng ni cởi áo cà sa.
Khoác chiến bào lên đường ra trận,
Thượng tọa Thế Long niệm Phật Di Đà.
Dẹp giặc xong, quê hương rực rỡ
Kỷ niệm xưa ghi tạc trong lòng.
Mẹ qua đời, chuông chùa vang vọng
Nhớ quê, thương mẹ, lệ sầu đong.
XUÂN NHA
Đà Lạt, chiều mơ
Lầu Ông Hoàng xưa tiên giáng thế
Pô-sa-nư, tháp Chế Bồng Nga.
Có anh du khách sông Trà,
Giã từ Phan Thiết, ghé qua Lâm Đồng.
Sớm Lang-bi-ang, nghe thông gió lộng,
Chiều ngân nga, chuông vọng Tuyền Lâm.
Ngẩn ngơ giữa thực và không,
Tỉnh mê, mê tỉnh, say trong vô thường.
Để rồi buổi anh thương, anh nhớ,
Xa người em phố núi mộng mơ.
Bâng khuâng dưới ánh trăng mờ,
Thể như ả Chức đợi chờ chàng Ngưu.
Từ nhớ nhung, âu sầu Hải Khánh,
Viết lên thành Đà Lạt – tình ca.
Giao lưu bạn hữu quê nhà
Gọi là ký sự chuyến ra Lâm Đồng.
Xuân Nha tôi nức lòng mến mộ,
Mối tình thơ xin có đôi dòng.
Hỏi người thi sĩ yêu mong
Cành si buông rễ, đèo bòng về đâu?
MINH HỒNG
Câu lục bát
Cảm ơn em cho tôi câu lục bát,
Thổi hồn vào man mác cả lòng tôi.
Câu lục bát, tôi yêu câu lục bát,
Thoảng hương tình man mác trước bờ môi.
Tôi nghe câu lục bát thuở nằm nôi,
Tiếng mẹ à ơi, đêm dài trăn trở.
Câu lục bát đưa tôi về xứ sở,
Dưới đường chiều bỡ ngỡ bước chân tôi.
Nhớ lắm thôi, lối nhỏ ở quê nghèo,
Câu lục bát gieo vần trong sáng mãi.
Đã lâu rồi chưa một lần trở lại,
Nay tôi về, câu lục bát về theo.
Kia rồi, bóng nghiêng cây bưởi sau nhà,
Hoa trắng nở cho em cài mái tóc.
Câu lục bát thuở đưa tôi đi học,
Hai cổng rào cành hoa giấy choàng qua.
Câu lục bát thường ngày ở quanh tôi,
Có xa đâu, sao bỗng thương, bỗng nhớ?
Hay chuyện tình ngày xưa còn duyên nợ,
Để bây giờ ôm mộng trả em ơi!
MỸ HUỲNH
Em gái Hậu Giang
Đẹp thay chiếc áo bà ba,
Nghiêng nghiêng nón lá thướt tha tóc dài.
Quen nhau độ ấy đến nay
Hậu Giang xuôi ngược qua đây bao lần?
Cần Thơ gạo trắng trong ngần,
Quê hương khắc đậm tình thân ngàn đời.
Hỡi người em gái tôi ơi,
Xuồng câu phá giặc chói ngời chiến công!
Tên em sáng cả non sông,
Ngụy trang cành lá cho dòng thêm xanh.
Con thuyền bé nhỏ mong manh,
Mái dầm vẫn khuấy động nhanh tay chèo.
Thủy chung em gái quê nghèo,
Gởi em tất cả thương yêu tình này.
PHAN LIÊN KHÊ
Trăng rằm
Mong tới, mong lui cũng đến rằm
Trên trời lồng lộng một vầng trăng.
Mấy em nhỏ bé tìm thằng Cuội
Vài chú thanh niên kiếm chị Hằng.
Sông núi, ruộng đồng như dát bạc
Làng quê, phố thị tựa trải vàng.
Nhà thơ lơ đãng cầm cây bút
Thiên hạ bao người có biết chăng?
ĐÌNH TÍN
Nhớ Thùy Trâm
Đền ơn, đáp nghĩa công vàng
Với người áo trắng muôn ngàn thân thương.
Gian lao, khổ sở đoạn trường,
Chiến tranh chết chóc, tìm đường cứu sinh.
Quên mình cứu lấy thương binh,
Thuốc men thiếu thốn, thân chinh cứu người.
Thùy Trâm nhật ký khôn nguôi,
Tấm gương hậu thế cho người noi theo.
Hy sinh trận tuyến hiểm nghèo
Nhớ ơn công đức chống chèo cứu thương.
Dân làm bệnh viện địa phương,
Lấy tên viện ấy, tên thường Thùy Trâm.
Tuổi trẻ hiểu lấy chữ tâm,
Đi đâu cũng nhắc Thùy Trâm người hiền.
Quí trọng đức tín, thiêng liêng
Anh hùng cỡ ấy, bưng biền rạng danh!
HẢI KHÁNH
Đâu có giặc, Trâm nguyền dấn bước
Qua nhật ký những điều viết thực
Em còn lưu ký ức rỡ ràng.
Rạng y đức ngời dân gian
Căm thù giặc Mỹ xâm lăng cõi bờ.
Cùng cả nước ước mơ thống nhất,
Mong nước nhà Độc lập, Tự do.
Dân no ấm, vững cơ đồ
Lòng dân, ý Đảng, Bác Hồ thiêng liêng!
Đâu có giặc Trâm nguyền dấn bước,
Cùng lên đường cứu nước, vào Nam
Để cùng đánh Mỹ dã man
Dù cho thịt nát, xương tan, xá gì.
Thùy Trâm ơi! Sống vì chân lý,
Cùng bao người ý chí kiên trung.
Tuổi xuân chí nguyện vẫy vùng
Mong ngày tan giặc, non sông nối liền!
Vào Đức Phổ, chiến trường khói lửa
Cứu thương binh, gian khổ giữa rừng.
Quyết tâm phấn đấu không ngừng
Cùng du kích đánh tan quân giặc càn.
Nơi tuyến đầu muôn vàn ác liệt.
Cả vành đai Mỹ quét đạn bom.
Giặc lùng, tập kích, xây đồn,
Đêm đêm pháo sáng khắp vùng triền miên.
Em hoạt động khắp miền gian khổ
Từ làng Răm, Đức Phổ, Sa Huỳnh
Phổ Phong, Phổ Khánh, Phổ Ninh
Sông Trường, Mỹ Á, Phổ Vinh, Phổ Cường...
Mặc Mỹ càn chiến trường máu lửa
Em vẫn đi luôn dựa vào dân.
Tin cơ sở, vững tinh thần
Nêu cao lý tưởng sáng ngần lạc quan.
Cạnh cái chết sẵn sàng chẳng sợ,
Lo bệnh binh cứu chữa đến cùng.
Thương đời, thương nước lo chung,
Góp phần chiến thắng hào hùng nở hoa.
Trâm hy sinh, trường ca sống mãi,
Sáng ngời gương, soi dậy lòng người.
Sống luôn dâng hiến cho đời,
Em phi thường quá sáng ngời nhân gian!
Em chiến đấu hiên ngang oanh liệt
Trước quân thù chỉ biết tiến công.
Luôn tư thế vững như đồng,
Quân thù khâm phục nữ hùng Việt Nam.
Đời đời tưởng nhớ Thùy Trâm
Bà con Đức Phổ dâng trầm ngát hương!
ĐÌNH TÍN
Ngày thương binh liệt sĩ
Hai mươi tháng bảy hỡi anh,
Ngày này Đảng đã ghi danh sổ vàng.
Anh đi chiến đấu hiên ngang,
Thịt xương chẳng quản, lòng vàng mến yêu.
Hy sinh lắm cảnh đìu hiu,
Gia đình lo liệu sớm chiều đèn nhang.
Bạn bè đồng đội lo toan,
Qui về các chốn nghĩa trang sum vầy.
Một năm qui định ngày này,
Nhớ ơn cống hiến dành ngày vinh quang.
Anh đi chiến đấu muôn ngàn,
Thịt xương chẳng tiếc, tìm đàng tự do.
Tôi may phúc đức trời cho,
Góp phần độc lập tự do giống nòi.
Suy đi nghĩ lại mà coi,
Bác Hồ dạy bảo chẳng sai chút nào.
Ơn này đất thấp, trời cao,
Giang san thống nhất có nào vui hơn.
Chiến trường xưa, nay về thăm,
Chẳng còn dấu vết chiến tranh một thời.
Ngày nay làng xóm đông vui
Soi nhìn mái tóc ta ngời trắng mây.
Thương người nằm lại khôn khuây,
Ta càng ra sức chung xây nước nhà.
Nhớ thời bom đạn đã qua,
Tự hào người lính trường ca anh hùng.
HẢI KHÁNH
Nhớ người nằm lại
Qua cuộc chiến, ta lại về,
Còn bao đồng đội suối, khe yên nằm.
Trường Sơn khắp nẻo xa xăm
Bạt ngàn Đồng Tháp mút tầm cò bay.
Chúng ta còn sống về đây,
Nhớ người nằm lại lòng này xót xa.
Nơi xưa trận địa bao la,
Ngổn ngang công sự, gần xa chiến hào.
Mờ trong khói lửa, đêm thâu
“Mùa hè đỏ lửa” trận đầu Kà Chay...
Loạt bom từ pháo đài bay
Kẻ còn, người lạc đêm dày tìm nhau.
Gò Da, Kà Chớp ầm ào,
Bom cày đạn xới lao chao lạc đường.
Pháo, tăng, đạn địch tứ phương
Thương người nằm lại chiến trường ngàn năm!
Chiến trường xưa, nay về thăm,
Chẳng còn dấu vết chiến tranh một thời.
Ngày nay làng xóm đông vui
Soi nhìn mái tóc ta ngời trắng mây.
Thương người nằm lại khôn khuây,
Ta càng ra sức chung xây nước nhà.
Nhớ thời bom đạn đã qua,
Tự hào người lính trường ca anh hùng.
HỨA KHẮC VŨ
Mộ tím bằng lăng
Nhớ lại một chuyện tình thời chống Mỹ
Dưới gốc bằng lăng,
Một cặp trai gái đang ngồi.
Họ mân mê kết hoa thành xâu,
Đeo vào cổ cho nhau.
Rồi mùa hoa bằng lăng nở năm sau,
Chỉ mình nàng ngồi dưới gốc bằng lăng.
Không kết hoa, vì không có chàng để tặng.
Nàng khắc vào thân cây,
Từng năm ... từng năm ... từng năm ...
Đã qua ba mùa hoa bằng lăng nở,
Chiến trường miền Đông ngày càng ác liệt.
Mỗi chiều về ngồi dưới gốc bằng lăng,
Hướng ra chiến trường đợi tin chàng,
Thêm hai mùa hoa bằng lăng rụng.
Tin báo về chàng đã hy sinh!
Rồi chiều nay, nàng âm thầm nhặt hoa bằng lăng tím
Xây mộ chàng – mộ tím bằng lăng!
Nàng lên đường tòng quân nhập ngũ.
PHAN LIÊN KHÊ
Cánh hoa nhỏ trên thảm cỏ xanh
Viếng mộ liệt sĩ Nguyễn Thị Liên,
Đồng đội và đồng nghiệp của tôi.
Đã xế trưa, nên anh phải ra về
Em ở lại làm cánh hoa trên thảm cỏ.
Linh hồn em sẽ tan vào ngọn gió
Và hình hài lẫn với những vầng mây.
Đồng đội xưa vẫn đông đúc xum vầy
Gắn bó bên nhau như thời đánh giặc.
Mẹ xót xa gửi lại dòng nước mắt,
Anh tiếc thương viết mấy câu thơ buồn.
Tháng bảy đã về, nắng lửa, mưa tuôn
Người đang sống, thương người nằm dưới mộ.
Thảm cỏ xanh, một màu xanh xứ sở
Như đời em mãi mãi tuổi đôi mươi.
Non nước mình tươi đẹp lắm em ơi
Đã qua rồi năm tháng dài lửa khói.
Thôn xóm thanh bình, những ngôi nhà mới
Những công trường, đường phố rộng thênh thang.
Đồng ruộng quê ta, bông lúa chín vàng
Chiến trường xưa, xanh màu cây thay lá.
Vì tự do, dân tộc mình đã trả
Bằng máu xương, nên không thể lãng quên.
Làm cánh hoa trên thảm cỏ, nghe em !
ĐOÀN LÂM
Tìm đồng đội
Chỉ nghe tin đồn anh còn nằm đâu đó,
Bọn chúng tôi lặn lội đi tìm.
Đường quá xa giữa mùa mưa bão
Đồng đội ơi đâu ngăn nổi những tấm lòng.
Thẳng Quốc lộ, lên Trảng Bàng, Phước Chỉ,
Chiến trường năm xưa, kỷ niệm một thời,
Nơi con sông đã đi vào ca hát
Vàm Cỏ Đông! Ơi Vàm Cỏ Đông.
Lội bưng sình, vượt đồng qua rạch,
Anh đây rồi, nằm lạnh lẽo cô đơn,
Không một nấm mồ, không dòng địa chỉ,
Sao quá hững hờ? Vô cảm? Vô tri?
Đắp lại nấm mồ thay lời xin lỗi,
Đốt nén nhang xin tạ tội với đất trời?
Tâm chúng tôi giờ đây thanh thản thế
Như làm một điều gì với nước, với dân.
Rồi mai đây sẽ đưa anh về quê mẹ,
Về với quê hương, nơi đồng đội anh nằm.
Đất sẽ ôm anh vào lòng mẹ
Như đứa con xa mới trở về nhà.
TÚY TUYẾT
Nhớ anh Vệ Quốc đoàn
Tôi có giọng ca khá ngọt ngào
Nhưng không tha thiết với trăng sao.
Vì người lính ấy đâu còn nữa,
Đã mất lâu rồi, thương xiết bao?
Vệ quốc quân lên đường tranh đấu,
Từ mùa thu cách mạng bốn lăm
Biền biệt ra đi năm bốn sáu
Không thấy về, đã mấy mươi năm.
Thân gái quản chi nỗi dặm trường
Tôi đã đi tìm khắp muôn phương.
Người ấy ra đi, tìm đâu thấy,
Chỉ thấy trong tim một nỗi buồn.
Tuổi xuân người ấy đã hiến dâng
Tổ quốc thân yêu trái tim vàng.
Ôm nỗi cô đơn cùng năm tháng
Tôi có riêng mình tiếng thở than.
Dù có tiếc thương, cũng qua rồi,
Ghi vào ký ức của mình thôi.
Mỗi năm, mỗi lần mùa thu đến
Tôi lại nhớ về tuổi đôi mươi…...
NĂM DÂN
Nỗi nhớ giao mùa
Cuối hè, trời chuyển sang thu,
Nhớ bằng lăng tím chiến khu năm nào.
Anh về phố thị xôn xao,
Biết anh còn nhớ chiến hào năm xưa?
Nhớ thời đạm bạc muối dưa,
Củ mài, sắn luộc sẻ chia ngọt bùi.
Anh về phố thị đông vui,
Đèn khuya sáng rực, quên trời sao thưa?
Tiếng ve rền rĩ giao mùa,
Biết anh còn nhớ đường khuya mưa dầm?
Áo bà ba bạc tháng năm,
Tóc xanh nay đã phong trần điểm sương.
Biết anh còn nhớ người thương,
Hào sâu chia lửa chiến trường có nhau.
Vào thu trời đổ mưa ngâu,
Đèn khuya chiếc bóng, nỗi sầu mênh mông
QUỐC BỬU
Lá cờ hồng
Nhìn cờ đỏ sao vàng bay phấp phới,
Trong lòng tôi phấn khởi biết bao nhiêu.
Lá cờ hồng Tổ quốc mãi kính yêu
Bay vun vút trên bầu trời đẹp lắm.
Cờ Cách mạng của Mùa Thu Tháng Tám,
Suốt chín năm làm chiến thắng Điện Biên.
Ba mươi năm thống nhất cả hai miền,
Đang vững bước trên con đường đổi mới.
Từng lộng gió đưa nước nhà tiến tới.
Sáu mươi năm giữ vững một màu xanh,
Nhân dân ta được hạnh phúc yên bình
Tươi sáng mãi trên vùng trời Tổ quốc.